Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 122
Tháng 04 : 3.198
Năm 2024 : 11.403
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

ĐỔI MỚI SINH HOẠT CHUYÊN MÔN DỰA TRÊN NGHIÊN CỨU BÀI HỌC

 

  1. Một số vấn đề về lý luận:

Quan niệm và mục đích đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo NCBH:

  • Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động được thực hiện thường xuyên theo định kỳ nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp thông qua việc dự giờ, phân tích bài học.
  • Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học(NCBH) cũng là hoạt động sinh hoạt chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: Học sinh học thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học tập? nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh không, kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần điều chỉnh gì và điều chỉnh như thế nào?

Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như ý muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho học sinh tham gia vào quá trình học tập; giúp giáo viên có khả năng điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp, trường mình.

Thuật ngữ “nghiên cứu bài học” (tiếng Anh là Lesson Study hoặc Lesson Research) theo tiếng Nhật (jugyo kenkyu) có nghĩa là nghiên cứu và cải thiện bài học cho đến khi nó hoàn hảo (theo Catherine Lewis, 2006). Thuật ngữ “nghiên cứu bài học” có nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, từ thời Meiji (1868 – 1912), như một biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của GV thông qua nghiên cứu cải tiến các họat động dạy học ở từng bài học cụ thể. Những năm gần đây Bộ GDĐT đã có nhiều biện pháp tích cực như giảm tải, tăng thời lượng cho một số bài học, môn học, chú trọng nhiều hơn đến cách sinh hoạt chuyên môn… cụ thể từ năm 2006, mô hình hoạt động chuyên môn theo NCBH được cải tiến thí nghiệm tại tỉnh Bắc Giang trong khuông khổ hợp tác Việt – Nhật, đã thực sự hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

Cho đến nay, NCBH là một mô hình phát triển nghề nghiệp của GV được sử dụng rộng rải tại các trường học tại Nhật Bản, đã được giới thiệu trên nhiều quốc gia khác và nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt. Điều đó cho thấy tính ưu việt và sức hấp dẫn tô lớn của NCBH. Ở đây chúng ta cần phải phân biệt “NCBH” khác với “bài học nghiên cứu” (chỉ những tiết học cụ thể được lựa chọn để đạt được mục đích nghiên cứu).

Mục đích ý nghĩa của SHCM theo hướng NCBH

  • Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập, giáo viên quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặt biệt những học sinh có khó khăn về học.
  • Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ.
  • Nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
  • Góp phần làm thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường: cải thiện mối quan hệ giữa Ban giám hiệu với giáo viên; giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, cán bộ quản lý/giáo viên/học sinh với các nhân viên trong nhà trường; giữa học sinh với học sinh. Tạo môi trường làm việc, dạy và học dân chủ, thân thiện cho tất cả mọi người.
  1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc SHCM theo NCBH:

2.1 Nghiên cứu bài học dựa trên lý thuyết vùng phát triển gần với lý thuyết Vygotsky(1896 – 1974)

Việc học tập của học sinh và phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên trong nghiên cứu bài học dựa trên cơ sở vùng phát triển vùng của nhà tâm lý học người Nga Vygotsky. Theo lý thuyết này nội dung học chỉ có ý nghĩa khi nằm trong vùng phát triển gần của người học. Do đó, nhiệm vụ của NCBH là xác định rõ vùng phát triển gần để lựa chọn mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học phù hợp.

Do trình độ hiện tại của người học cũng như năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của GV không đồng đều nên rất cần sự nghiên cứu, chia sẻ theo NCBH. Giữa quá trình phát triển của người học với quá trình dạy học không diễn ra đồng thời. Cơ chế tác động của quá trình dạy học đến quá trình phát triển của cá nhân người học là phức tạp, rất cần được suy ngẫm theo tinh thần NCBH.

2.2. NCBH dựa vào lý thuyết đối thoại của Mikail Bakhtin(1895-1975), Wertsch :

Con người học qua tương tác giữa các vòng tròn đối thoại. Theo lý thuyết của Mikail Bakhtin, quá trình dạy học không chỉ là sự tương tác theo chiều dọc giữa GV và học sinh mà còn tương tác theo chiều ngang giữa học sinh và học sinh. Nếu giờ học được ví dụ như một tấm vải thì tương tác GV - HS như những sợi dọc, còn tương tác HS – HS như những sợi ngang. Nếu thiếu những sợi ngang thì không thể hình thành tấm vải được.

2.3. NCBH là quá trình bồi dưỡng GV qua thực tiễn dạy học:

Việc xây dựng nhà trường, mỗi tổ/nhóm chuyên môn theo NCBH sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để khuyến khích đổi mới PPDH, KTĐG. Khi tham gia NCBH, mỗi GV được sống và làm việc trong môi trường an toàn, có thể tích cực hoạt động cho sự phát triển của bản thân, của tổ, của nhốm chuyên môn. Đó là quá trình trao đổi thông tin, qua đó GV được chia sẻ kiến thức chuyên môn, đổi mới PPDH, KTĐG của mình với đồng nghiệp, trao đổi ý kiến, hổ trợ và trợ giúp nhau để hoàn thiện các ký năng hiện có, bổ sung những ký năng mới và giải quyết các vấn đề liên quan tới lớp học. Tổ CM phải được duy trì họp ít nhất 2 lần/tháng theo quy định của Điều lệ của nhà trường phổ thông. Ngoài việc triển khai các công văn, chỉ thị của cấp trên, phục vụ dạy học, quản lý học sinh, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nói chung, phần lớn thời gian còn lại là SHCM dựa trên NCBH. Cụ thể như sau:

* Thay đổi nhận thức của GV và SHCM

SHCM theo NCBH là một quá trình các GV tham gia vào các khâu từ chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy thể nghiệm, dự giờ, suy ngẫm, chia sẻ các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học của HS. Đây là hoạt đọng học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử nghiệm và trải nghiệm những cái mới, là nơi kết nối lý thueeyts với thực hành, giữa ý định và thực tế. Trong quá trình học tập đó, GV sẽ học được nhiều điều để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ mới. Để đảm bảo SHCM hiệu quả, trước hết Hiệu trưởng trường THPT cần coi SHCM là trụ cột, là chính sách quan trọng nhất để đổi mới nhà trường, nâng cao chất lượng việc học của HS. Từ đó giúp GV hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của SHCM và cùng nhau nhất trí quyết tâm thực hiện SHCM mới. Hiểu rõ SHCM theo hướng tiếp cận mới là trụ cột, là chính sách quan trọng nhất để đổi mới nhà trường, CBQL và GV phải có quyết tâm cao trong việc đổi mới nhà trường thông qua kiên trì thực hiên SHCM mới. Cần tránh để GV suy nghĩ coi đó là chỉ là việc SHCM truyền thống mà họ và đã thực hiện từ trước đến nay và không học tập được nhiều. Cần tạo cho họ có động lực tham gia SHCM theo hướng tiếp cận mới để học tập lẫn nhau, nâng cao năng lực chuyên môn. Cần cho GV thấy SHCM theo hướng tiếp cận mới có mục đích chính là nâng cao chất lượng các bài học của học sinh.

Qua dự giờ mỗi GV có cái nhìn và cách nhìn khác nhau, có suy nghĩ cảm nhận khác nhau về HS và bài học của các em. Khi các ý kiến khác nhau đó được chia sẻ cho mọi người cùng thấy sẽ làm cho việc phân tích học trở nên phong phú, sâu sắc, đa chiều, đa dạng. Từ đó GV có cái nhìn toàn cảnh, phong phú và rõ nét hơn về tất cả các vấn đề liên quan đế việc dạy, việc học và cách giải quyết.

Đặc biệt, khi từ bỏ việc quan sát việc dạy của GV, người dự và người dạy sẽ thấy tất cả cùng nhau hướng về một điểm chung là việc học của học sinh. Họ không còn để ý đến những khoảng cách về năng lực giữa các GV, thoải mái hơn khi trao đổi và chia sẻ ý kiến. Từ đó họ dễ dàng chấp nhận lẫn nhau và họ sẽ chỉ quan tâm đến những khó khăn của người GV trước sự thay đổi phức tạp trong học tập của HS.

Tóm lại GV dự giờ chỉ quan sát, suy ngẫm về việ học và các vấn đề liên quan đến việc học của HS. Người dự giờ phải quan sát tỉ lỉ, phải tinh tế, nhạy cảm việc học của từng học sinh để suy ngẫm và chuẩn bị chia sẻ ý kiến phong phú, sâu sắc. Những dấu hiệu từ HS thể hiện rõ ở khuông mặt, lời nói, điệu bộ, sản phẩm học tập,… không nên chỉ quan sát việc dạy của GV, cần chú ý quan sát mối quan hệ phản ứng của HS trước nội dung bài học và hành động của GV. Không coi trọng việc ghi chép tiến trình bài dạy. GV dự giờ thoải mái ghi chép trong sổ dự giời. Khi kiểm trao, nhà trường nên đánh giá sổ dự giờ của GV theo hướng học.

3. Các đối tượng tham gia SHCM:

  • Mọi CBQL và GV và trong nhà trường đều phải cùng được tham gia và phải thực hiện đúng kỹ thuật SHCM. Sự tham gia của tất cả mọi người trong nhà trường, trong đó có cả phụ huynh HS, là đặc biệt cần thiết, nó sẽ biến mỗi nhà trường thành một cộng đồng học tâp. Quán triệt ý nghĩa, tầm quan trọng và thực hiện đúng kỹ thuật SHCM cho mọi GV trong trường hiểu rõ, tin tưởng là vô cùng cần thiết( đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện đổi mới SHCM). Nếu hiểu và làm đúng, buổi SHCM có thể kéo dài 3 – 4 giờ nhưng mọi người tham gia vẫn thấy hào hứng. CBQL trường học và GV cốt cán cần được tập huấn và quán triệt tầm nhìn, triết lý của SHCM. Việc hướng dẫn tổ chức thực hiện SHCM rất quan trọng, nếu không làm đúng, chúng ta sẽ quay trở lại cách SHCM truyền thống, không đảm bảo hiệu quả.
  • Để thực hiện đổi mới SHCM nên tổ chức ít nhất bao nhiêu buổi SHCM mỗi tuần? Theo kinh nghiệm của Nhật Bản thì GV có sự thay đổi nhất định và họ có thể nhận ra tác dụng của SHCM sau khi dự 100 buổi. Trong khi đó đó, theo quy định của chúng ta hiện nay nếu tính cả 5 tuần trong hè mỗi trường cũng chỉ tổ chức nhiều nhất khoảng 20 buổi SHCM/năm học.
  • Tổng thời gian buổi SHCM cần ít nhất 3 – 4 giờ, trong đó bao gồm cả thời gian dự giờ một bài học nghiên cứu và thời gian suy ngẫm, thảo luận. Cố gắn huy động tất cả CBQL và GV cùng dự. Giai đoạn đầu, khi mới tổ chức SHCM nên bố trí chung toàn trường để tập cách làm và xây dựng thói quen mới. Giai đoạn sau khi đã thành thạo, có thể tách biệt tổ chức SHCM theo nhóm, tổ nếu trường đông GV để tăng cơ hội phát biểu ý kiến cho người dự.

III. Các bước tiến hành NCBH

  • Yêu cầu đối với GV khi tiến hành tham gia NCBH

Khi tham gia NCBH cần có 1 nhóm GV có thể khác nhau về trình độ chuyên môn, khác nhau về chuyên ngành giảng dạy hoặc thậm chí có thể là khác trường. Tuy nhiên để thuận lợi cho quá trình thực hiện BH thì thông thường các nhóm nghiên cứu BH cùng trường và có cùng chuyên môn. Ngoài ra, có thể có sự tham gia đóng góp chuyên môn từ những học giả, GV trường khác hoặc các giảng viên từ các trường Đại học, Cao đẳng, các chuyên viên của Bộ GD v.v…. họ có thể cùng tham gia quan sát BHNC và nhận xét góp ý nhằm nâng cao hiệu quả dạy học.

  • Chu trình nghiên cứu BH

Có nhiều cách để phân chia các bước của chu trình NCBH:

Phân chia theo Stigler và Hiebert (1999)

Chu trình NCBH gồm 7 bước:

  1. Lập kế hoạch NCBH.
  2. Dạy học và quan sát BHNC.
  3. Đánh giá, nhận xét các bài học đã được dạy.
  4. Chỉnh sửa BH dựa trên sự góp ý, bổ sung sau những gì thu thập được sau khi tiến hành BHNC lần thứ nhất.
  5. Tiến hành dạy các BH đã được chỉnh sửa.
  6. Tiếp tục đánh giá nhận xét kết quả lần 2.
  7. Đưa vào ứng dụng rộng rãi trong quá trình dạy học và lập kế hoạch cho BH mới.

Phân chia theo Lewis(2002)

Chu trình NCBH gồm 4 bước:

  1. Xác định mục tiêu BH được nghiên cứu.
  2. Xậy dựng kế hoạch BH.
  3. Dạy và thảo luận về BHNC.
  4. Suy ngẫm và tiếp tục dạy hay đặt kế hoạch điều chỉnh tiếp theo.

Như vậy, theo Lewis có tất cả 4 bước để tiến hành NCBH. Theo kinh nghiệm thực tiễn đã áp dụng ở Bắc Giang sau đây sẽ trình bày kỹ các bước NCBH theo chu trình 4 bước như sau:

Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch BHNC

Ở bước thứ nhất này, chúng ta cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà HS cần đạt được khi tiến hành NC(ở đây cần sử dụng các tài liệu về chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học). Mục tiêu của BHNC được đề xuất bởi 1 thành viên trong tổ CM, sau đó được góp ý, hoàn thiện qua SHCM. Mục tiêu ấy phải phù hợp với trình độ của HS, năng lực CM của GV cũng như chuẩn kiến thức, kỹ năng. Nên tôn trọng khuyến khích sự tự chủ, sáng tạo của GV khi soạn bài với ý tưởng mới.

Các GV sẽ có 1 cuộc thảo luận chi tiết, cụ thể BH tiến hành NC như:

  • Đặt câu hỏi xem đây là loại BH gì ?( hình thành kiến thức mới, hay ôn tập, luyện tập, thực hành, v.v….)
  • Cách giới thiệu BH này như thế nào?(Vào BH trực tiếp hay gián tiếp?Làm thế nào để vào BH tự nhiên nhất?).
  • Có sử dụng tình huống có vấn đề để giới thiệu BH hay không?(Tình huống như thế nào?Dự kiến cách giải quyết vấn đề ra sao?v.v…);
  • Việc sử dụng các phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu quả cao?
  • Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào?
  • Dự kiến tổ chức những hoạt động dạy học nào tương ứng? GV sẽ sử dụng những câu hỏi để thúc đẩy khả năng tư duy sáng tạo của HS thế nào? à Từ đó dẫn tới câu hỏi về :
  • Hình thức tổ chức lớp học nào là phù hợp? Cần chú ý những kỹ thuật dạy học nào được vận dụng nào ở đây?
  • Lời nói, thao tác, hành động của GV là gì?
  • GV trình bày bảng những nội dung nào?
  • Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục liên quan nào là phù hợp. Điều đó tác động đến việc học của HS ra sao? HS học như thế nào? Dự kiến cách suy nghĩ, lời nói, hành động, thao tác của HS khi học? Sản phẩm học tập của HS trong bài học này là gì?v.v….Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của HS khi tham gia các hoạt động học tập? Dự kiến các tình huống xảy ra và cách xử lý nếu có v.v….? Kết thúc BH như thế nào? Đánh giá kết quả học tập của HS qua tiết học bằng cách nào? Các bằng chứng để đánh giá kết quả học tập của HS là gì.

Ngoài ra, GV còn thảo luận về một số vấn đề khác như: làm thế nào để khắc phục được sự chênh lệch về trình độ của các HS trong lớp để đảm bảo tất cả các HS sau mỗi BH đều đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng; làm thế nào để thúc đẩy quá trình hình thành các kỹ năng khác nhau ở HS; làm thế nào để duy trì và nuôi dưỡng các kỹ năng đã có của HS và mối liên hệ của nội dung đó với các nội dung khác của môn học hay với các môn học khác.

Sau khi kết thúc cuộc họp này, một GV trong nhóm sẽ nhận trách nhiệm vụ phát triển đề cương đầu tiên của giáo án BHNC. Mục tiêu, nội dung và phương pháp của giờ học do GV dạy minh họa chủ động lựa chọn. Do đó, GV dạy minh họa cần tự quyết định mục tiêu bài học, lựa chọn nội dung. TBDH, kết cấu và tiến trình bài học . các ý kiến góp ý chỉnh sửa của tổ CM chỉ mang tính tham khảo. Các thành viên khác có nhiệm vụ nêu kế hoạch chi tiết cho việc quan sát và thảo luận sau khi tiến hành BHNC.

Bước 2. Tiến hành bài học và dự giờ

Sau khi hoàn thành kế hoạch dạy học chi tiết, một GV sẽ dạy minh họa BHNC ở 1 lớp học cụ thể, các GV còn lại trong nhóm tiến hành dự giờ và ghi chép thu thập dữ kiện về bài học.

Tổ chức dự giờ như thế nào?

Việc bố trí dự giờ là một khâu quan trong của đổi mới SHCM theo NCBH. Là cơ sở để GV có cách nhìn mới, nhận ra các vấn đề liên quan đến công việc của bản thân và của đồng nghiệp. Để đảm bảo việc dự giờ thành công cần lưu ý thực hiện tốt các bước chuẩn bị bài học minh họa, tổ chức dự giờ theo cách quan sát mới và quay video bài học. Các yêu cầu cụ thể của việc dự giờ như sau:

  • Chuẩn bị lớp dạy minh họa, bố trí lớp có đủ chỗ ngồi quan sát thuận lợi cho người dự.
  • Điều chỉnh số lượng người dự ở mức vừa phải, không quá đông. Bởi vì sẽ gây khó khăn cho việc quan sát diễn biến bài học. Không đủ thời gian để chia sẻ tất cả các ý kiến.
  • Việc dự giờ cần đảm bảo không ảnh hưởng đến việc học của HS, không gây khó khăn cho người dạy minh họa.

Vị trí quan sát của người dự giờ

Do trọng tâm quan sát là việc học của HS, cho nên người dự không ngồi phía sau lớp học như cách dự giờ truyền thống. Người dự hoặc ngồi (đứng) ở hai bên lớp học hoặc đứng ở phía trước lớp học. Có thể quay video để lấy tư liệu sau bài học phục vụ thảo luận. GV vần quan sát cách HS học, cách phản ứng của HS trong giờ học, cách HS làm việc nhóm, những sai lầm HS mắc phải trong quá trình học. Sự quan sát ấy hướng tới tất cả các HS trong lớp học chứ không riêng những HS nổi bật, HS giỏi, hay giơ tay phát biểu. Sau khi kết thúc tiết học, những người tham gia sẽ cùng thảo luận về bài học đã được thực hiện.

Thực hiện tốt nguyên tắc khi dự giờ phải tập trung vào việc học của HS.

Việc hiểu HS học như thế nào luôn là 1 vấn đề khó khăn cho người dự giờ. Năng lực tinh tế việc học của HS chỉ hình thành sau nhiều lần dự giờ theo NCBH. GV có thể lập sơ đồ vị trí của lớp học để tiến hành quan sát. Kết hợp quan sát không khí lớp học một cách tổng thể với tập trung chú ý vào một nhóm HS được lựa chọn. Hành vi, nét mặt, cử chỉ, lời nói của HS cần được quan sát, để tìm mối liên hệ giữa việc học của HS với tác động của phương pháp, nội dung dạy học.

Từ bỏ thói quen quan sát, đánh giá việc dạy của GV.

Do việc dự giờ dạy minh họa là cơ hội để phát triển chuyên môn cho tất cả GV, cho nên trong SHCM theo NCBH, người dự không nhằm mục đích đánh giá, xếp loại GV. Người dự cần hiểu, thông cảm với các khó khăn của người dạy. Đặt mình vào vị trí của người dạy để phát hiện những khó khăn trong việc học của HS để tìm cách giải quyết.

Bước 3. Suy ngẫm, thảo luận về BHNC

Suy ngẫm và chia sẻ ý kiến của các GV về bài học sau khi dự giờ là đặc biệt quan trọng, là công việc có ý nghĩa nhất trong SHCM, là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của SHCM. Vì suy ngẫm gắn liền với thảo luận và chia sẻ ý kiến. Các ý kiến đưa ra nhiều hay ít, tinh tế và sâu sắc hay hời hợt và nông cạn sẽ quyết định hiệu quả học tập, phát triển năng lực của tất cả các GV tham gia vào SHCM. Tuy nhiên, đây là khâu khó và phức tạp nhất nhưng đặc biệt thú vị, rất cần có tinh thần cộng tác, xây dựng của người tham gia và đặc biệt vai trò, năng lực của người chủ trì.

Suy ngẫm khác đánh giá ở chỗ không có tiêu chuẩn và tiêu chí cụ thể nào. Suy ngẫm là những phán đoán về những thực tế vừa xảy ra trong giờ dự và đã từng xảy ra với bản thân người dự giờ (dựa vào năng lực, hiểu biết, kinh nghiệm vốn có để suy ngẫm). Người dự phải từ bỏ thói quen quan sát và đánh giá người dạy, thay vào đó là quá trình quan sát việc học của HS, đưa ra những ý kiến , bằng chứng về những gì họ “nhìn thấy” được về cách suy nghĩ, cách học, cách giải quyết vấn đề của HS dựa trên thực tế của lớp học, qua đó có thể bổ sung, rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả bài học. Liệu những phán đoán của người dự về phản ứng, thái độ, cách giải quyết vấn đề có giống với thực tiễn dạy học hay không, những khó khăn với HS liệu đã được giải quyết sau tiết học chưa? Từ đó có thể chia sẻ, rút kinh nghiệm để hoàn thiện bài học hơn nữa.

Khi thảo luận, nội dung trao đổi cần tập trung vào việc nhận xét các hoạt động học tập của HS: Hoạt động nào hiệu quả, hoạt động nào chưa hiệu quả? Câu hỏi nào hay? Tình huống học tập nào đáng lưu ý? HS nào, nhóm nào hoạt động hiệu quả, lí do? HS nào chưa tập trụng chú ý vào việc học? Vì sao?... GV dự giờ cũng cần trao đổi về những khả năng HS đạt được trong thực tế giờ học rồi đem đối chiếu với ý định của GV dạy. Nên tránh cách nói: “Theo tôi phải thế này, thế kia...”, “Nếu tôi dạy bài này, tôi sẽ làm thế này, thế kia...” bởi mỗi giờ học có rất nhiều cách dạy khác nhau. Khi suy ngẫm và chia sẻ, cần đảm bảo ai cũng phải có ý kiến riêng; ý kiến phải cụ thể, tỉ mỉ; lắng nghe và tôn trọng các ý kiến của nhau; không xếp loại giờ dạy; không phê bình, chỉ trích GV và HS. Người dự giờ phải có suy ngẫm sâu sắc về việc học của HS và các vấn đề liên quan để đưa ra ý kiến riêng càng cụ thể, tỉ mỉ càng tốt, không nói chung chung. Mọi người phải lắng nghe và tôn trọng các ý kiến của nhau khi thảo luận. GV phải đặt mình trong hoàn cảnh của GV dạy minh họa; đồng cảm với khó khăn và chia sẻ thành công với GV dạy minh họa. Không nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy như thời gian, nội dung kiến thức, sự hoàn hảo về tiến trình lên lớp.

Cần quan tâm đến thái độ, hành vi, suy nghĩ, sản phẩm học tập, thực tế việc học của các em HS và mối quan hệ của chúng với ý định tiến hành của GV. Không nên rút ra kết luận thống nhất chung. Tuy nhiên, có thể nhấn mạnh lại các vấn đề nổi bật, đáng qua tâm và chú ý trong buổi SHCM. Tuyệt đối không xếp loại giờ dạy minh họa trong SHCM (kể cả trong suy nghĩ). Bởi vì giờ dạy là của chung mọi người khi tham gia SHCM (không phải của riêng GV dạy minh họa). Thực tế, không có giờ dạy hoàn hảo, giờ dạy chính là giờ học dành cho HS, không phải dành cho GV. Hơn nữa việc phát triển năng lực GV qua NCBH cần một quá trình lâu dài.

Đối với người chủ trì, cần tạo cơ hội cho tất cả người dự được phát biểu; cần tìm hiểu ý nghĩa của những ý kiến đóng góp nhằm làm sáng tỏ những gì họ muốn phát biểu thì mọi người sẽ học hỏi được nhiều điều; không nhất thiết tổng kết buổi thảo luận mà khuyến khích mỗi GV tự phát triển khả năng tổng kết của mình.

Bước 4. Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày.

Sau khi thảo luận về tiết dạy đầu tiên, tất cả cùng suy ngẫm xem có cần tiếp tục thực hiện NCBH này nữa hay không? Nếu BHNC vẫn chưa hoàn thiện thì cần tiếp tục nghiên cứu, nếu vậy thì cần phải thay đổi hay chỉnh sửa ở những nội dung nào, chỗ nào được, chỗ nào chưa được. Chưa được thì phải thay đổi như thế nào để thực hiện ở lớp học tiếp theo. Tất cả những câu hỏi đó các GV phải cùng nhau xem xét để tiết dạy ở các lớp sau hoàn thiện hơn. Từ các ý kiến đóng góp thu được sau cuộc thảo luận, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục chỉnh sửa lại cho phù hợp với đối tượng lớp tiếp theo. Những đặc điểm được sửa có thể là cách nêu vấn đề, câu hỏi, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức lớp học, hoạt động của HS v.v...

Như vậy, nêu coi quá trình nghiên cứu một bài học được thực hiện một lần ở 1 lớp được xem như một đơn vị thì chu trình tiến hành một NCBH có thể bao gồm nhiều quá trình đơn vị. Chúng nối tiếp nhau và tạo nên một chu trình tuần hoàn nghiên cứu, hồ sơ bài học sẽ được tiếp thu, phát triển và hoàn thiện. Chu trình này bảo đảm cho quá trình NCBH được chỉnh sửa, thực hiện, đánh giá và hoàn thiện liên tục.

Thời gian thực hiện của giai đoạn này rất khác nhau và tùy yêu cầu của bài học mà quá trình này có thể lặp lại một vài lần hay chỉ tiến hành một lần. Chu trình này đảm bảo cho bài học được hoàn thiện và mang lại hiệu quả cao nhất cho việc học của HS và tiến dần đến mục tiêu đã đề ra.

Quy trình NCBH lặp lại nhau nhưng không gây ra nhàm chán, mất hứng thú đối với GV bởi lẽ ở những lớp khác nhau, đối tượng HS khác nhau sẽ dẫn tới thực tế khác nhau và làm phong phú thêm vốn kinh nghiệm của GV. Cuối cùng các GV cùng viết báo cáo vạch ra những gì họ đã học được liên quan đến chủ đề nghiên cứu và mục tiêu của họ. Mỗi người tham gia sẽ hoàn thành một báo cáo cuối cùng bao gồm sự phản ánh về quá trình NCBH và tác động của nó vào giảng dạy và học tập. Báo cáo cuối cùng là nguồn tư liệu rất có giá trị để giúp các GV suy nghĩ về những gì họ đã học được về thực tiễn giảng dạy liên quan đến các mục tiêu nghiên cứu.

                                                                                       Ban chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học

 


Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Video Clip
Văn bản mới